Bệnh hồng sản

 

BỆNH HỒNG SẢN

(Erythroplasia of Queyrat - Erythroplasie de Queyrat - Bowen Disease of the Glans Penis)

 

Bệnh hồng sản được mô tả lần đầu tiên bởi Tarnovsky năm 1891; sau đó năm 1893, Fournier và Darier coi như một bệnh của dương vật. Năm 1911, Queyrat đã có những nghiên cứu sâu về bệnh này và coi đây là bệnh tiền ung thư.
Thực chất là bệnh Bowen ở qui đầu với biểu hiện một hay nhiều mảng da đỏ, ẩm ướt, lỗ chỗ hoặc nhẵn ở qui đầu trên những người nam giới lớn hơn 40 tuổi và đặc biệt sau khi phẫu thuật cắt bao qui đầu. Bệnh thường biến chuyển thành ác tính nhiều hơn bệnh Bowen có di căn rõ ràng, nhưng cá biệt có trường hợp cũng không biến thành ác tính.(Bệnh Bowen, được John T. Bowen mô tả lần đầu tiên vào năm 1912, là bệnh ung thư tế bào vảy tại chỗ (squamous cell carcinoma in situ)).


Dịch tễ học
Tần số: hiếm gặp ở Mỹ. Chưa có tài liệu nào nói chính xác tỷ lệ mắc bệnh.
Giới: bệnh chỉ gặp ở nam.
Tuổi: gặp ở nam 30-80 tuổi, tuổi khởi phát trung bình 51 tuổi.
Nguyên nhân: bệnh thường gặp nhất ở những người không cắt bao quy đầu.

Tiếp xúc thường xuyên với tia UV.
Asen.
Human papilloma virus: HPV 16, HPV 2.
Khác: gen, tổn thương, các hóa chất gây ung thư khác, tia X.
Lâm sàng Tổn thương là dát hoặc mảng đỏ, bờ rõ; sau đó, tổn thương có thể dày sừng, vảy tiết, nứt, loét, một số biểu hiện tăng sắc tố nhất là ở vùng sinh dục và móng. Kích thước tổn thương khác nhau: đường kính từ vài millimet đến vài centimet. Số lượng: hai phần ba trường hợp có một tổn thương. Vị trí tổn thương: thường gặp nhất ở đầu và cổ, sau đó là các chi, ở dương vật gọi là hồng sản của Queyrat (erythroplasia of Queyrat). Mảng đỏ với bề mặt rất khác nhau: mềm, trơn nhẵn, vảy da, vảy tiết hoặc sần sùi như hạt cơm. Tổn thương loét gợi ý tổn thương tiến triển thành ung thư tế bào vảy xâm lấn. Số lượng một hoặc nhiều mảng. Vị trí: quy đầu, bao quy đầu.
Triệu chứng cơ năng: thường không có.
Triệu chứng cơ năng: có thể có đau, ngứa, bí đái.

Cận lâm sàng
Mô bệnh học.
Điều trị
Thuốc bôi:5-fluorouracil: đã có nhiều trường hợp điều trị thành công bằng bôi kem 5-fluorouracil ngày 2 lần trong ít nhất 4 tuần.
Kem Imiquimod 5%: bôi 3-7ngày/tuần.
Tia X cho những người không có điều kiện phẫu thuật hoặc bệnh nhân nhiều tổn thương.
Photodynamic therapy (PDT):
Phẫu thuật:
Phẫu thuật quy ước: cắt cả vùng vùng chu vi cách bờ tổn thương ít nhất 4mm. Đây là phương pháp thường dùng và để điều trị những tổn thương có kích thước nhỏ. Không dùng cho những tổn thương ở mặt, chi.
Phẫu thuật Mohs: đây là biện pháp tốt nhất để điều trị những tổn thương lớn, tái phát hoặc ở những vùng cần đảm bảo chức năng sống.
Curet, đốt điện, áp ni-tơ lỏng, laser CO2.

 


 



phẩu thuật mohs (Mohs surgery)Phẫu thuật Mohs, được sáng tạo bởi nhà phẫu thuật Fredrick E. Mohs, là phẫu thuật có sự kiểm soát của kính hiển vi, rất hiệu quả trong điều trị các bệnh ung thư tế bào đáy, ung thư tế bào vảy, ung thư hắc tố tại chỗ (melanoma-in-situ). Phẫu thuật này có giá thành cao hơn các phẫu thuật khác. Tuy nhiên, khi bị bệnh tại những vùng da quan trọng về mặt giải phẫu (mi mắt, mũi, môi), cần phải tiết kiệm mô, tránh tái phát thì nhiều nhà phẫu thuật chọn phương pháp này để điều trị.
Việc thực hiện phẫu thuật Mohs có 4 bước:
- Phẫu thuật loại bỏ tổn thương.
- Xử lý mảnh cắt bằng phương pháp cắt lạnh: các lát cắt cách nhau 5-10micromet, nhuộm HE.
- Phân tích dưới kính hiển vi.
- Phẫu thuật lại khi còn tổn thương ung thư.
Sau mỗi lần phẫu thuật, mảnh cắt sẽ được xử lý bằng phương pháp cắt lạnh, nhuộm và phân tích dưới kính hiển vi, nếu vẫn còn tế bào ung thư thì lại tiến hành phẫu thuật để cắt tổn thương.