Rụng tóc

 

1. Đại cương: Con người chúng ta được che chở bởi lông và tóc, ngoại trừ ở lòng bàn chân, lòng bàn tay, qui đầu và ở môi. Tóc và lông tập trung nhiều ở trên đầu, mặt nách, mu bộ phận sinh dục. Tóc và lông chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền từ cha mẹ, ông bà.Trung bình mỗi người có khoảng 100.000 nang tóc nhiều người có khoảng 150.000 nang tóc.

 

Ở da đầu của trẻ em, trên mỗi cm2 có khoảng 1.100 nang tóc. Đến lúc 25 tuổi còn khoảng 600 nang tóc/1 cm2, số lượng này thay đổi tùy theo mỗi cá nhân. Lứa tuổi từ 30 đến 50 số nang tóc còn khoảng 250-300/1 cm2.

Trong suốt cuộc đời mỗi nang tóc mọc khoảng 20 sợi tóc mới. Mỗi ngày tóc mọc dài thêm 0,35mm, mỗi sợi tóc mọc khoảng 1 cm mỗi tháng, khoảng 12,8cm mỗi năm, một nam giới cắt tóc ngắn đã cắt đi khoảng 9m tóc trong cả cuộc đời.

Theo tính toán của các nhà khoa học, mỗi người chúng ta thường xuyên có trên đầu từ 100.000 đến 150.000 sợi tóc. Lẽ tất nhiên đây là những người khỏe mạnh bình thường, không kể những người hói, những người mắc bệnh rụng tóc, đầu trọc phải mang tóc giả. Cuộc sống của một sợi tóc kéo dài 4 năm, như vậy trong cả cuộc đời, mảng da đầu của mỗi người sản sinh ra tới 3 triệu sợi tóc. Chu kỳ phát triển tóc trải qua hai giai đoạn: mọc và nghỉ. Giai đoạn tóc mọc thường kéo dài 3-5 năm, sẽ cho biết chiều dài của sợi tóc. Tóc mọc trung bình 0,35 mm mỗi ngày. Có một giai đoạn kéo dài độ vài tuần giữa 2 kỳ mọc và nghỉ. Giai đoạn ngưng phát triển kéo dài độ 3 tháng, đưa tới sự rụng tóc. Sau đó, nang tóc chuyển qua một chu kỳ mới, một lớp tóc mới thay cho lớp tóc đã rụng. Chu kỳ đó giúp cho sự thay thế tóc trên da đầu. Ở bất cứ lúc nào cũng đều có 90% tóc ở trong giai đoạn đang mọc và 10% tóc ở trong giai đoạn nghỉ. Bình thường da đầu mất 100-150 sợi tóc mỗi ngày và tóc thưa dần khi có tuổi. Sự phát triển của tóc trên da đầu xảy ra theo một chu kỳ hoạt động không liên tục. Pha đầu tiên là pha phát triển (pha mọc tóc, pha hoạt động active phase) gọi là anagen có hoạt động gián phân mạnh. Tiếp theo một pha gọi là catagen trong đó sự gián phân đột ngột ngừng lại. Rồi tiếp đến là pha nghỉ (pha ngừng lại) gọi là telogen. Pha telogen ở lông mày, lông mi, lông nách, lông mu kéo dài hơn ở da đầu và vùng râu cằm. Thời gian của các pha này dường như phụ thuộc vào các yếu tố tại chỗ và yếu tố di truyền. Bình thường tóc anagen chiếm 80- 90%, catagen 5% và tóc telogen 10- 15%. Hàng ngày có 50- 100 sợi tóc rụng, số tóc này là tóc được thay thế hàng ngày. 
Bệnh rụng tóc tùy thuộc vào sự biến đổi testosterone thành dihydrotestosterone (DHT) bởi yếu tố men 5-alpha reductase. DHT sẽ gắn vào một thụ thể kích thích tố nam, gây nên những tác dụng phức tạp và khác biệt. Ở nang tóc của những người bị hói thiên về di truyền hay mẫn cảm với nồng độ kích thích tố nam bình thường có hiện tượng thừa DHT, ngăn cản sự mọc tóc.

Nam giới thường rụng tóc ở vùng trán và thưa tóc trên đỉnh đầu. Tùy theo mức độ, họ có thể bị rụng gần hết hay chỉ còn lại tóc hình móng ngựa ở vùng thái dương và sau gáy (hói đầu). Trái lại, phụ nữ thường còn tóc ở vùng trán và thưa tóc ở trên chẩm. Nếu xem kỹ da đầu người bị rụng tóc sẽ thấy một số lớn tóc nhỏ, ngắn và thưa hơn bình thường, không thấy dấu hiệu viêm hay có sẹo như những bệnh nhân bị rụng tóc do nguyên nhân khác (như bệnh lupus ban đỏ). Vì bệnh này tiến triển chậm nên tóc thường không rụng khi chải hoặc gội đầu.

Trường hợp rụng tóc thái quá thường là do kết quả của bệnh nặng hoặc do ngưng phát triển tóc hay rụng tóc từng vùng. Bệnh thứ nhất thường xảy ra sau khi đau ốm, có thai hay dùng một số thuốc, trong khi bệnh thứ hai là do một sự tự miễn làm cho tóc rụng từng vùng.

Dù rằng bệnh là kết quả của một sự gia tăng biến đổi testosterone thành DHT, nhưng bác sĩ cũng cần loại bỏ nguyên nhân dư thừa kích thích tố nam từ trung ương. Những triệu chứng khác của bệnh dư thừa testosterone gồm: có nhiều trứng cá, mọc nhiều lông, kinh nguyệt không đều và hiếm muộn. Đo lượng testosterone và DHT sẽ giúp cho việc định bệnh.

2.Nguyên nhân thường gặp

- Thừa trội hormone nam

- Thiếu năng tuyến giáp trạng

- Khủng hoảng thiếu chất

- Sau sốt cao hoặc viêm, sau ốm nặng, sinh đẻ, phẩu thuật…

- Stress kéo dài

- Sau một đợt dùng thuốc

- Sụt cân nhanh

- Sử dụng dầu gội

- Tật nhổ tóc 
- Tác động thô bạo

3.Phân loại

3.1. Phân loại theo hậu quả: 
Rụng tóc không sẹo (non scaring alopecia). 
- Rụng tóc androgen di truyền. Androgenetic alopecia). 
- Rụng tóc telogen (Telogen effluvium). 
- Rụng tóc anagen (Anagen effluvium).

- Rụng tóc thành đám (alopecia areata). 
- Rụng tóc kết hợp bị bệnh toàn thân hoặc hệ thống. 
- Giang mai (syphilis). 
- Rụng tóc kết hợp với các hội chứng di truyền.

- Rụng tóc nội tiết

- Do tật nhổ tóc (trichotillomania) 
Rụng tóc có sẹo (scarring alopecia, cicatricial alopecia).

- Thiếu hụt phát triển và rối loạn di truyền

- U tân sản (neoplasms), U sắc tố

- Bệnh da nguồn gốc miễn dịch, di truyền.

- Khuyết tật di truyền hoặc phát triển. 
- Nhiễm vi sinh vật: Vi khuẩn: vi khuẩn gây mủ, lao; Nấm: nấm kerion; Vi rút: zona; Protozoa: leishmania (đơn bào). 
-Tổn thương do lý, hoá học, bỏng và rụng tóc do các chấn thương khác.

3.2.Phân loại theo căn nguyên

Rụng tóc thành đám (alopecia areata)

Rụng tóc androgen di truyền(androgenetic alopecia- AGA)

Rụng tóc telogen (telogen effluvium, Telogen defluvium).

Rụng tóc anagen(anagen effluvium)

Rụng tóc do vi sinhvật (nấm, đơn bào, vi khuẩn, vi rus)

Rụng tóc do giang mai

Rụng tóc do tác nhân lý hóa: tật nhổ tóc hoá học, bỏng và rụng tóc do các chấn thương khác.

4.Một số bệnh rụng tóc hay gặp

4.1. Rụng tóc thành đám (alopecia areata), Còn gọi là bệnh pelade.
+Căn nguyên chưa rõ, có vai trò của yếu tố di truyền, miễn dịch, nội tiết, liên quan tới stress, nhiễm khuẩn. Hiện nay người ta cho rằng có một quá trình tự miễn chống hành lông. Có thể kết hợp với vitiligo, suy cận giáp, addison, viêm tuyến giáp hashimoto, nhược cơ nặng, hội chứng Down, thiếu máu ác tính, thường gặp ở người lớn, trẻ tuổi (trước tuổi trung niên), tỷ lệ nam / nữ là 2/1.
+Triệu chứng lâm sàng: rụng tóc thành từng đám, từng vùng, khu trú thành đám hình tròn, bầu dục, một hoặc nhiều đám, thường một vài đám kích thước vài cm đường kính, không có dấu hiệu viêm nào, không triệu chứng, da trơn nhẵn giống như sẹo, có thể thấy một số sợi tóc thanh mảnh, bạc màu như lông tơ, ở rìa đám có sợi gẫy ngắn và mập gọi là tóc dấu chấm than (exclamation point hairs). Triệu chứng cơ năng: không đau, không ngứa. 
Rụng tóc ở vùng đầu, có thể rụng ở vùng râu cằm và vùng khác. 
+ Chia thành các loại sau: 
- Rụng tóc thành đám (alopecia areata). 
- Rụng tóc thể rắn bò (alopecia ophiasis). 
- Rụng tóc toàn phần (alopecia totalis). Toàn bộ tóc vùng đầu hầu như bị rụng. 
- Rụng tóc toàn bộ (alopecia universalis). Rụng tóc vùng đầu, rụng cả lông mày, nách, mi, lông mu, lông tơ của cơ thể. 
+Biểu hiện ở móng: loạn dưỡng, đĩa móng có hàng trăm hố lõm nhỏ. Rụng tóc thể mảng thường biểu hiện với triệu chứng tóc rụng nhanh, rụng hoàn toàn để lại một hoặc nhiều dát hình tròn hoặc oval ở da đầu không có tóc, đôi khi có thể thấy xuất hiện ở vùng râu, lông mày, mi mắt... Kích thước các dát rụng tóc này thường từ 1 - 5 cm, đôi khi còn thấy một số sợi tóc bình thường hoặc sợi tóc bạc trên bề mặt dát rụng tóc. Khi khám tại vùng rìa của dát tóc rụng có thể thấy sợi tóc ngắn dạng “dấu chấm than”. 10% các trường hợp rụng tóc thể mảng nặng có biểu hiện kèm theo ở móng như chấm, đường lõm ngang hoặc dọc.

+ Tiến triển: các đám ổn định nguyên như vậy, thường mọc lại một cách ngẫu nhiên sau vài tháng, có khi xuất hiện các đám mới trong khi các đám khác đang mọc lại. Bệnh cũng thường tái phát. Rụng tóc thể mảng đôi khi tiến triển nặng gây rụng tóc toàn bộ và rụng toàn thể lông tóc. Một số trường hợp rụng tóc thể mảng có thể tự khỏi mà không điều trị gì.
Nếu bệnh xuất hiện sau tuổi thiếu niên thì 80% sẽ mọc tóc lại và ít gặp rụng lông tóc toàn bộ (alopecia universalis). 
Bệnh cũng thường tái phát. Nếu có biến đổi móng và rụng tóc toàn phần (alopecia totalis) thì tiên lượng không tốt hoặc các đám liên kết thành từng dải ở vùng đỉnh, tiên lượng cũng không tốt. 
+Mô bệnh học da: nang tóc giảm kích thước, thâm nhiễm lympho quanh mạch, thâm nhiễm lympho quanh nang lông ở tổn thương đang hoạt động. 
+Xét nghiệm tóc đồ (trichogram): các sợi tóc anagen loạn dưỡng tăng tỷ lệ tóc telogen tới 40% hoặc hơn (bình thường < 20%), các chân tóc (hair zoots) hình dùi cui, dấu chấm than. 
+Điều trị: không có thuốc đặc trị, khó đánh giá tiên lượng vì nhiều khi ngẫu nhiên tóc mọc lại. 
- Tâm lý liệu pháp, trợ giúp tâm lý của thầy thuốc là cần thiết, cần giải giải thích là loại rụng tóc này hầu hết sẽ mọc lại.

-Tiêm corticoid tại chỗ: phương pháp này được cho là lựa chọn đầu tiên, hiệu quả và kinh tế nhất. Thuốc hay sử dụng là Triamcinolone, với liều điều trị ở đây thường áp dụng là 5mg/ml. ở những trường hợp rụng tóc nhiều, tiêm tại chỗ ít đem lại kết quả hoàn toàn. Corticosteroid tiêm trong tổn thương. Triamcinolon acétonide 3, 5 mg/ml, tháng một lần.

-Miễn dịch tại chỗ: một số chất được sử dụng cho rụng tóc thể mảng với diện tích lớn là DNCB (dinitrochlorobenzene), SADBE (squaric acid dibutyl ester), DPCP (diphenylcyclopropenone). Tuy vậy, các thuốc này đều là thuốc có nhiều tác dụng phụ như đỏ da, tróc vảy, thâm nhiễm, gây viêm da tiếp xúc dị ứng tại chỗ, sưng hạch lân cận.

-PUVA: là phương pháp sử dụng psoralen dạng uống hoặc dạng bôi tại chỗ, phối hợp với chiếu ánh sáng tử ngoại bước sóng dài (UVA). Kết quả đạt được chỉ thấy sau khoảng 30 lần chiếu với liều UVA cao.

-Bôi Minoxidil 2% - 5%: có thể sử dụng dưới dạng chỉ định hỗ trợ điều trị, kích thích quá trình mọc tóc. Bôi corticoid tại chỗ: chỉ sử dụng corticoid dạng mạnh, bôi ban đêm nhưng kết quả thường đạt được ít như mong muốn.

- Vitamin B, C, A. Bepanthen. 
- An thần. 
- Corticoids uống thường làm mọc tóc. Cần chú ý tác dụng phụ và khi ngừng một thời gian bệnh có thể tái phát. 
- Cyclosporin: uống làm mọc tóc, khi ngừng thuốc bệnh dễ tái phát. 
- PUVA trị liệu (quang hoá trị liệu). 
- Các thuốc khác như Tacrolimus... cũng có chỉ định trong điều trị rụng tóc thể mảng.

4.2.Rụng tóc nội tiết (Rụng tóc androgen di truyền) (androgenetic alopecia- AGA)

+Rụng tóc nội tiết hay rụng tóc Androgenetic (AGA) là loại rụng tóc hay gặp nhất ở cả hai giới và thường mang tính chất gia đình. Nguyên nhân của rụng tóc là tăng nhạy cảm quá mức của các receptor androgen (hormon sinh dục nam) và a-reductase ở vùng da đầu phía trước cao hơn so với ở vùng da đầu phía sau.

+AGA còn gọi là chứng hói tiến triển, xuất hiện do tố bẩm sinh di truyền và tác động của androgen lên nang tóc ở đầu. Từ đồng nghĩa: hói kiểu đàn ông, hói thông thường (common baldness), rụng tóc có tính di truyền ở đàn bà. 
Căn nguyên: nam bị nhiều hơn nữ. Nam 20- 40 tuổi. Nữ xuất hiên muộn hơn, 40% ở tuổi 60-70. Phối hợp hiệu quả của androgen lên nang tóc có tố bẩm di truyền. Bệnh do di truyền đa gien hoặc autosome trội ở nam. Autosome lặn ở nữ. Phần lớn bệnh nhân (cả nam và nữ) có nội tiết bình thường nhưng ở tại chỗ có tăng biểu hiện của các thụ thể (receptors) androgen. Cơ chế tác động của Androgen lên tế bào nang lông dẫn đến AGA thì không rõ. Một số bệnh nhân có tăng androgen. 
+Triệu chứng lâm sàng: tóc rụng thưa mỏng đi một cách từ từ ở đàn ông, thường rụng tóc tạo thành một đường ở phía trước hình chữ M, ở vùng trán thái dương rồi rụng vùng đỉnh hậu quả là để lại một vành tóc ở hai bên và vùng chẩm của đầu (hình vẽ). Vùng này không bao giờ rụng tóc trong bệnh này. Bệnh này có nghịch lý là đàn ông bị AGA lan toả lại mọc nhiều lông giới tính thứ phát ở nách, mu, ngực, râu cằm. Theo phân loại của Hamilton type I, rụng tóc dọc gờ trán, type II rụng vùng trán và khởi đầu vùng đỉnh chẩm. Type III, IV, V cả hai vùng liên hợp nối với nhau, hói hoàn toàn phía trên, để lại còn lại tóc ở hai mặt bên và sau gáy thành một vành từ trước ra sau. 
Ở phụ nữ rụng lan toả, tóc mỏng thưa đi. ở nữ trẻ bị AGA có các dấu hiệu nam tính hoá như có trứng cá, lông ở quá nhiều thânmình và vùng mặt, kinh nguyệt không đều. Tóc ở vùng AGA mảnh hơn, ngắn hơn, trở thành lông tơ và teo hoàn toàn. Ở nữ, rụng tóc được gọi là theo kiểu hói nữ. Tóc trở nên thưa dần trên toàn bộ da đầu, nhưng chủ yếu vùng đỉnh. Vùng tóc ở phía trước thường ít rụng hơn, nên không thấy thay đổi đường chân tóc phía trán. Thường rụng tóc kiểu hói nữ không gây hói toàn bộ.

+Xét nghiệm: tóc đồ (trichogram) thấy tăng tỷ lệ phần trăm tóc telogen (bình thường 80-90% các sợi tóc ở anagen, telogen 10-15%). 
Mô bệnh học: nhiều nang tóc ở pha telogen, nang tóc giảm kích thước gần như teo hoàn toàn. Tóc chuyển thành lông tơ, sợi tóc ngắn giảm đường kính. 
+Tiến triển từ nhiều năm đến hàng chục năm. 
+Điều trị: không có phương pháp điều trị có hiệu lực cao để ngăn sự tiến triển của AGA. 
Dung dịch Minoxidil 2% bôi tại chỗ làm giảm rụng tóc và mọc lại tóc, sau 4- 12 tháng 40% mọc tóc lại. Phối hợp nồng độ cao minoxidil và retinoid tại chỗ sẽ có kết quả tốt hơn. 
Kháng androgen: Dutasteride, spironolactone, cyproteron acetate, flutamid và cimetidine. Cơ chế tác dụng của các thuốc này là thuốc kết hợp với thụ thể androgen và chẹn tác dụng của dihydrotestosteron. Thuốc có tác dụng ở phụ nữ bị AGA, nhưng không dùng cho nam giới. 
Finasteride: Theo FDA của Mỹ thì Finasteride có chỉ định sử dụng trong điều trị rụng tóc nội tiết của cả nam và nữ. Nhưng trên thực thực hành, Finasteride chỉ sử dụng cho bệnh nhân nam. Hiệu quả điều trị của Finasteride được đánh giá tốt đặc biệt ở nhóm bệnh nhân ở độ tuổi 18 - 40. Liều sử dụng 1 mg/ngày và thời gian điều trị trong 6 tháng đến 1 năm.

Cấy ghép tóc (hair transplantation). Chuyển các miếng ghép mô nang lông từ vùng gờ viền xung quanh(vùng tóc không mẫn cảm androgen) tới vùng hói ở đầu mẫn cảm androgen. Vi ghép mô này là kỹ thuật thành công giúp tóc mọc lại. phương pháp được sử dụng khá nhiều ở các nước phát triển. Cấy chuyển tóc có thể bằng phương pháp chuyển vạt da đầu, cấy chuyển dạng đảo, hoặc cấy chuyển từng sợi.

4.3. Rụng tóc telogen (telogen effluvium, Telogen defluvium). 
Định nghĩa: là loại rụng tóc hàng ngày tăng dần, tóc mỏng thưa đi. 
Tăng tỷ lệ phần trăm pha telogen (tóc đầu tày) tóc bị chuyển nhanh từ pha anagen sang catagen và telogen. 
Căn nguyên: 
- Có thai, sảy thai, sinh đẻ. 
- Chấn thương lớn, phẫu thuật ngoại khoa lớn, mất máu. 
- Sau đợt ốm có sốt cao 
- Sau ăn kiêng, sụt cân trong thời gian ngắn. 
- Thuốc tránh thai, giảm năng tuyến giáp. 
- Một số thuốc khác. 
+ Lâm sàng: các nguyên nhân thường đi trước rụng tóc telogen 6- 16 tuần. Biểu hiện lâm sàng làtăng rụng tóc, tóc mỏng thưa đi, bệnh nhân lo lắng, sợ hãi họ sẽ bị hói. Thầy thuốc thường được chứng kiến các túi plastic chứa tóc rụng của họ. Rụng tóc lan toả vùng đầu, vuốt tóc thấy một vài sợi hay nhiều sợi bị rụng (tóc giai đoạn telogen hoặc tóc đầu tày, hình dùi cui (club hairs)) rụng lan toả ở cả mặt bên và sau đầu, các tóc mới mọc lại ngắn, mảnh hơn tóc cũ và đuôi thon nhọn hơn. 
Móng có những đường hằn ngang(đường Beau)hoặc rãnh, khía ở bản móng các ngón tay, ngón chân. 
Xét nghiệm: 
Trichogram (tóc đồ): tăng tỷ lệ phần trăm tóc telogen(bình thường từ 10- 15%.). 
Tiến triển: về sau tóc mọc lại. Tuy nhiên nếu rụng nghiêm trọng và tái phát sau nhiều lần có thai kế tiếp nhau (chửa đẻ nhiều lần) có thể tóc mọc lại không hoàn toàn. Sau nguyên nhân tác động tóc có thể rụng kéo dài trong vòng 1 năm. 
+ Điều trị: không cần điều trị gì đặc biệt, vitamin B liều cao, calcium, về sau tóc sẽ mọc lại, giải thích cho bệnh nhân là cần chờ đợi. 
24.4 Rụng tóc anagen(anagen effluvium)- Rụng tóc lan tỏa(Diffuse hair loss)

+Định nghĩa: rụng tóc anagen là kiểu rụng tóc lan toả (Diffuse hair loss), khởi đầu nhanh và khá rõ rệt, nó gây nên kìm hãm sự mọc tóc hoặc làm hư hại các sợi tóc anagen chuyển nhanh sang catagen và telogen và rụng đi. Trong loại rụng tóc này tóc không bị rụng từng một vùng nhỏ hoặc vùng lớn mà tóc chỉ rụng lưa thưa, rải rác khắp da đầu, nhìn vào thấy da đầu ít tóc hơn bình thường. Khi dùng tay vuốt nhẹ thì sẽ thấy vài sợi tóc dễ dàng rụng theo. Đây là loại rụng tóc thường gặp nhất trong các loại rụng tóc.
+Căn nguyên:

- Sau khi sinh đẻ, đến tuổi mãn kinh.

- Sau khi bị sốt cao kéo dài.

- Bị sốt ổ nhiễm trùng đâu đó trong cơ thể như sâu răng, bệnh giang mai v.v...

- Suy dinh dưỡng, thiếu ăn, thiếu máu.

- Giảm chức năng tuyến giáp trạng.

- Uống thuốc trị bệnh ung thư.

- Sau khi uốn tóc hoặc bị một số hóa chất tác động, hoặc do thiếu tia X quang ở da đầu.

- Bị stress nặng và kéo dài.

+Phần lớn rụng tóc loại anagen gây nên do thuốc, nhiễm độc và hoá trị liệu. 
-Thuốc chống đông Heparin ,Warfarin Một vài thông báo gây rụngtóc tỷ lệ thay đổi từ 19%- 70% rụng tóc lan toả. 
-Colchicine Rụng tóc lan toả, tăng số tóc telogen.

-Các thuốc chống U:Bleomycin, Cyclophosphamide, Cytarabine, Dacarbazine, Dactinomycine, Daunorubicin, Etoposide, Fluorouracil, Hydroxyurea, Ifosfamide , Mechlorethamine, Melphalen, Methotrexate, Mitomycin, Mytoxantrone, Nitrosourea, Procarbazine, Thiotepa, Vinblastine, Vinoristine 
-Thuốc chống Parkinson, Levodopa, Thuốc chống động kinh, Trimethadione 
-Thuốc chẹn Beta: Metoprolol, Propanolol 
-Các thuốc tránh thai 
-Thuốc dùng trong điều trị rối loạn lưỡng cực: Lithium 
-Nguồn gốc nấm cựa gà: Bromocriptin 
-Thuốc chẹn H2 : Cimetidine

-Kim loại nặng (độc): Thallium, Thuỷ ngân và chì. 
-Thuốc làm giảm cholesteron:Clofibrate 
-Chất diệt sinh vật độc hại 
-Boric acid 
-Retinoids:Etretinate, Isotretinoin

4.5. Rụng tóc có sẹo (scarring alopecia, cicatricial alopecia). 
+Một số bệnh có tổn thương gây nên sẹo và nếu nó xuất hiện ở vùng đầu nang tóc bị phá huỷ hậu quả gây nên rụng tóc có sẹo (scarring alopecia). 
Rụng tóc loại này có đặc tính là tổn thương có sẹo. Tóc bị teo và nang tóc bi hư hại hay huỷ hoại, do viêm (nhiễm trùng và không nhiễm trùng) hoặc do bị bệnh lý khác và khi khỏi xuất hiện sẹo. Có thể phát hiện các dấu hiệu lâm sàng đặc trưng của bệnh chính ở vùng rụng tóc., vùng da xung quanh hoặc vùng da khác của cơ thể. 
+Nguyên nhân rụng tóc thành sẹo. 
- Thiếu hụt phát triển và rối loạn di truyền: ichthyosis, liên kết X ẩn, nevi biểu bì, ly thượng bì bỏng nước, epidermolysis bullosa (GAREB).

-Nấm đầu (tinea capitis), nấm kerion hoặc favus. 
- U tân sản (neoplasms): Ung thư tế bào đáy (basal cell carcinoma), ung thư tế bào gai (squamous cell carcinoma). Metastatic tumors (các u di căn), lymphomas, u phần phụ (adnexal tumors), U sắc tố. 
- Tác nhân vật lý, hoá học: Chấn thương cơ học, bỏng, chiếu xạ, các chất ăn da, các chất hoá học khác, các thuốc khác.

- Bệnh da nguồn gốc miễn dịch, di truyền: lupus. Lichen...

-Do bỏng , các khối u ở da đầu, Sarcoi'dosis, xơ cứng bì, teo da (morphea), hoại tử mỡ đái tháo đường (necrobiosis lipoidica diabeticosum), viêm da cơ, Pemphigoi'd thành sẹo, u nhày , bệnh muxin nang lông (follicular mucinosis). trứng cá sẹo lồi, giả viêm nang lông vùng râu cằm Pseudo folliculiti barbae thường gặp ở người da đen, lông uốn cong mọc ngược gây giả viêm nang lông nhiễm khuẩn thứ phát, rụng lông vùng đó, ở vùng gáy chẩm gây rụng tóc, viêm nang lông vùng gáy. Viêm quanh nang lông da đầu hoá mủ rải rác, Amyloidosis.
- Khuyết tật di truyền hoặc phát triển. 
- Nhiễm vi sinh vật: Vi khuẩn: vi khuẩn gây mủ, lao; Vi rút: zona; Protozoa: leishmania (đơn bào).

+ Một số bệnh rụng tóc do sẹo

Rụng tóc do lupus

Rụng tóc trong lupus đỏ thường biểu hiện với 2 dạng lâm sàng:

Tổn thương rụng tóc có sẹo là ban đỏ, teo da, nút sừng nang lông, giãn mạch, tăng và giảm sắc tố tại chỗ. Bệnh nhân có biểu hiện rụng tóc này có thể hoặc không kèm theo biểu hiện khác của lupus đỏ hệ thống và lupus đỏ kinh.

Biểu hiện tóc khô, thưa, dễ gẫy ở vùng phía trước da đầu trong lupus đỏ hệ thống.

Khi sinh thiết tổn thương rụng tóc do lupus da mạn tính thường thấy tập trung nhiều tế bào lympho bào, dày sừng và nút sừng nang lông. Luput đỏ dạng đĩa (Discoid lupus erythematosus): luput đỏ dạng đĩa có thể có tổn thương trên da đầu là các đám đỏ hình tròn, có vảy da là các nút sừng ở nang lông sau có teo d agây rụng tóc có sẹo. 
Rụng tóc do lichen phẳng nang lông(lichen planus)

Biểu hiện là các sẩn hoặc dát đỏ quanh nang lông. Các sẩn nang lông có thể lan ra thân mình và các chi. Vùng tổn thương tóc rụng có thể thấy các điểm sẹo teo. Ngoài ra, còn các tổn thương sẩn hình đa giác, màu đỏ tím ở vùng cổ tay,cẳng chân….

Chẩn đoán chủ yếu dựa vào sinh thiết thấy hình ảnh thâm nhiễm điển hình của lichen phẳng ở trung bì. Liken phẳng (lichen planus có thể có tổn thương ở vùng da đầu là các sẩn màu tím, có dạng nút ở nang lông về sau các nút nang lông này biến mất gây rụng tóc có sẹo., lichen xơ và teo.

Rụng tóc do viêm nang lông decalvans

Viêm nang lông mụn mủ, vết trợt, vảy tiết tái phát nhiều lần, gây rụng tóc có sẹo màu trắng ngà.

Nguyên nhân có thể do phản ứng quá mạnh của cơ thể đối với các nhiễm khuẩn như tụ cầu.

Rụng tóc do kerion celsi

Hiện tượng nấm da đầu gây phản ứng mạnh, tạo nhiều tầng mủ ở da đầu. Kết quả quá trình viêm này gây rụng tóc có sẹo.

Bệnh Kerion celsi thường gặp ở trẻ nhỏ, sống ở gia đình có nuôi súc vật như chó, mèo.

Điều trị cần phối hợp kháng sinh chống nấm với trích rạch dẫn lưu mủ tại chỗ.

Rụng tóc do trứng cá sẹo lồi

Thường hay gặp ở người nam, trẻ tuổi, da sẫm màu, với hình thành các sẩn dạng trứng cá ở vùng gáy.

Sau các tổn thương này tiến tiển thành dạng sẹo lồi gây phá hủy các nang tóc.

Điều trị bằng tiêm corticoid tại chỗ, vitamin A acid, kháng sinh, phẫu thuật cắt bỏ dưới nang tóc.

Rụng tóc giả thể mảng của Brocq

Hiện tượng rụng tóc giống như thể mảng, không có hiện tượng viêm, hay dày sừng nang lông. Tuy vậy, vùng rụng tóc này tiến triển lặng lẽ gây nên sẹo tại chỗ và phá hủy các nang tóc.

4.6. Rụng tóc do giang mai.

Ở giang mai thời kỳ thứ hai, các tổn thương ngoài da là đào ban, sẩn cũng có thể xuất hiện ở vùng da đầu. Những tổn thương dẫn đến rụng tóc theo kiểu “rừng thưa”. Nhiều tác giả khuyên rằng: ở tất cả các thể rụng tóc lan tỏa đều cần phải làm xét nghiệm RPR để loại trừ nguyên nhân rụng tóc do bệnh giang mai gây nên.

Giang mai II thường hay gây rụng tóc, rụng tóc kiểu rừng thưa, thường rụng ở vùng thái dương và vùng gáy, rụng nham nhở không đều, được ví như" gián nhấm", điều trị giang mai tóc sẽ mọc trở lại. 
Chẩn đoán chủ yếu hỏi tiền sử quan hệ tình dục nghi vấn, khám phát hiện các dấu hiệu khác của bệnh giang mai như đào ban, sẩn giang mai II, mảng niêm mạc, hạch và xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán giang mai dương tính. Điều trị bệnh giang mai tóc sẽ mọc lại. 
4.7. Rụng tóc do tật nhổ tóc (trichotillomania).

Tật nhổ tóc là do thói quen người bệnh thường nhổ tóc, lông mày hoặc mí mắt. Tật nhổ tóc thường gặp ở trẻ gái dưới 10 tuổi, nhưng cũng có thể gặp ở trẻ trai và người lớn tuổi, nhất là những người làm việc trí óc. Người ta cho rằng những người này có tật về thần kinh, thường nhổ tóc khi căng thẳng, cáu kỉnh, khi xem tivi, lúc đi ngủ, cảm giác khó chịu không cưỡng lại được phải nhổ tóc, lâu ngày thành thói quen. 
Vị trí: có người nhổ đỉnh đầu, có người nhổ phía trước, thông thường ở hai bên thái dương. Thương tổn không có ranh giới rõ ràng, tóc vùng thương tổn không đều chỗ cao chỗ thấp. 
Cần chẩn đoán phân biệt với nấm tóc: đám đỏ vẩy có ranh giới, tóc bị gẫy cách da đầu một vài mm, chân tóc có vẩy bao quanh (dấu hiệu đi bí tất, nhúng trong bột), xét nghiệm nấm dương tính. 
Thử nghiệm kéo nhổ tóc (hair pluck) tăng tỉ lệ số tóc Anagen và catagen (vì phần lớn tóc telogen bịbệnhnhân nhổ đi). 
Biểu hiện là mảng tóc rụng, giới hạn của mảng này không rõ. Tóc rụng ở mảng không đều, với các sợi tóc có chiều dài khác nhau. Bề mặt mảng tóc rụng lởm chởm với các sợi tóc chưa nhổ được hết. Người bệnh thường than phiền cảm giác đau, khó chịu nang lông, hoặc vùng da đầu nên cần nhổ tóc để đỡ đau.

Điều trị tâm lý liệu pháp thuyết phục bệnh nhân bỏ thói quen nhổ tóc, nếu cần cho thuốc an thần, và thuốc kháng histamin tổng hợp nếu có ngứa da đầu, thuốc bôi mỡ corticoid có kháng sinh kết hợp nếu có kèm viêm chân tóc. Việc điều trị tật nhổ tóc thường dựa vào các biện pháp tâm lý, điều chỉnh hành vi. Một số thuốc có thể áp dụng là Clomipramine, Fluvoxamine, Fluoxetine, Paroxetine...

4.8. Rụng tóc do nấm: 
+Rụng tóc do nấm thường do chủng nấm Microsporum hoặc trichophyton nguồn gốc lây từ người sang ngươì (M ferrugineum, M. audouini, T. violaceum, T. craterioforme) hoặctừ súc vật lây sang người (M. lanosum, M. gupseum, M. equinum, T. gupseum, T faviforme...). Bệnh thường gặp ở lứa tuổi trẻ em, học sinh, lâynhiếm trong gia đình, vườn trẻ, nhà trường, loại lây từ súc vật sang người do bế, ôm súc vật. 
+N ấm tóc do Trichophyton

- Loại nấm tóc Trichophyton nông biểu hiện bằng trên da đầu có đám tròn to nhỏ không đều, ranh giới không phủ vẩy da màu trắng đục, xen kẽ giữa các giữa các tóc lành có những tóc bị xén ngắn chỉ còn 1-2 mm, hoặc bị xén cụt sát chân chỉ còn lại điểm đén như 1 hạt than khảm vào da đầu.

- Loại nấm tóc Trichophyton thâm nhiễm và mưng mủ nguồn lây từ súc vật sang ngừi, đầu có 1-2 đám tổn thương ranh giới rõ, viêm mạch, nhiễm cộm, trên bề mặt đầy vẩy mủ đó là một cụm áp xe nhỏ khu trú xung quanh chân lông còn gọi là "áp xe nang lông" mủ nặn ra từ các nang lông giống như mật trong các lỗ tầng ong còn có tên gọi " kerion de celse", còn nếu do

+Nấm tóc do Microsporum

- Microsporum có nguồn gốc từ người tổ thương đám tròn to nhỏ không đều, ranh giới không phủ vẩy da màu trắng đục, xen kẽ giữa các giữa các tóc lành có những tóc bị xén ngắn chỉ còn 1-2 mm, hoặc thành từng đám róc vẩy nhỏ ở da đầu, giới hạn không rõ rệt, có xu hướng liên kết với nhau có khi thành đám lớn hình nhiều vòng cung.

-Microsporum có nguồn gốc từ súc vật ở da đầu thường có 1-2 đám lớn tròn hay bầu dục, ranh giới rõ, có vẩy da trắng mốc như rắc tro. Có khi bên cạnh đám lớn có 1-2 đám nhỏ hơn, toàn bộ tóc trong đám bị xén cụt chỉ còn cách da đâu 3-4 mm. Điểm đặc biệt là chân tóc có chất bột trắng bám chặt như đi "bít tất" như tóc bị " nhúng chân vào bột" chất bự trắng đó thực chất là các bào tử nấm bám quanh chân tóc. 
+Một loại nấm tóc do chủng Favus lây truyền từ người sang người qua lược, mũ, quần áo hoặc qua tiếp xúc trực tiếp, thường bị từ lúc còn bé hoặc tuổi thanh thiểu niên. Tổn thương chủ yếu gặp ở da đầu, có các đám tròn đỏ vảy sau đó mảng đóng vẩy gồ cao màu sẫm, vàng nhạt, vàng tươi viền nham nhở, có các " nghiên Favus", có khi đến hàng chục cái đứng riêng rẽ hoặc tách ra trên bờ các mảng vẩy. Nghiên Favus hĩnh đĩa lõm nhỏ đều đặn, tròn, vài mm đường kính, gồ lên 2-3 mm trên da, bao quanh một chân tóc, màu vàng diêm sinh rất đặc biệt, thực chất là một khối sợi nấm dày đặc, mùi: chuột cù" dưới nghiên Favus nền da hơi lõm, nhẵn bóng, viêm tấy đỏ ít hay nhiều, có thể có loét mủ, tóc bị rụng hoặc tổn thương Favus gây sẹo trụi tóc vĩnh viễn. 
+Bệnh trứng tóc (tóc bột- Trichosporosis nodosa- Piedra) có 2loại piedra trắng (do trichosporum beigelie) và Piedra den (do peidra Hortai Fonreca) ở Việt Nam đa số là Piedre đen. Biểu hiện là có những hột nhỏ hình thoi, bầu dục hoặc tròn, màu đen, cứng, xù xì bám chắc vào thân tóc từ 1-2 cm cách da đầu trở lên. Có sợi tóc có đến hàng chục hột, màu tóc không bị ảnh hưởng, tóc không bị gãy. 
+Chẩn đoán bệnh nấm tóc nên căn cứ vào: 
- Hỏi kỹ tiền sử bệnh sử. 
- Khám lâm sàng, chú ý tìm cả tổn thương nấm ở vùng da khác. 
- Làm xét nghiệm soi nấm trực tiếp, cấy nấm. 
- Soi ánh sáng đén Wood thấy ánh sáng huỳnh quang màu sáng xanh. 
+Chẩn đoán phân biệt với á sừng liên cầu, viêm da da dầu, vẩy nến. ở vùng da đầu. 
+Điều trị: 
Tại chỗ: Bôi cồn BSI 1%, dung dịch castellani hoặc mỡ clotrimazol 1%, kem nizorral, kem lamisil. 
Toàn thân: cho uống kháng sinh chống nấm griseofuvil hoặc ketoconazol (nizoral viên), itraconazole, terbinafine, vitamin nhóm B, nâng đỡ cơ thể. 
Phòng bệnh: khám phát hiện bệnh nấm tóc ở gia đình và trường học cả những ca bệnh nhẹ và người mang không triệu chứng để điều trị kịp thời tránh lây lan 
4.9. Bệnh tóc chuỗi hạt (Beaded hair, bệnh monilethrix). 
+Định nghĩa: đây là bệnh của tóc mà hậu quả là do các biến đổi dày thân tóc lên một cách đều đặn tạo thành các nút cục ở tóc và có xu hướng tóc bị gãy, đứt đoạn. 
+Căn nguyên: chưa rõ, biến đổi có tính chu kỳ trong quá trình chuyển hoá bất thường bài tiết các amino acids phát hiện thấy argininosuccinic acid trong nước tiểu một số trường hợp. Monilethrix là một bệnh hiếm gặp, cả hai giới bị bệnh tỷ lệ như nhau, thường xuất hiện ở tuổi niên thiếu, có đặc điểm di truyền trội kiểu mendel, độ xuyên không hoàn toàn. ở một số người bị thể nhẹ tóc hầu như bình thường phải khám kỹ mới phát hiện được. 
Lâm sàng: bệnh thường xuất hiện lần đầu ở tuổi ấu thơ, biểu hiện bằng rối loạn sự phát triển của tóc, trẻ em bị hói hoặc tóc thưa và dễ gẫy đến nỗi da đầu phủ toàn tóc ngắn. Thường gặp sẩn dầy sừng nang lông thường gặp làm da đầu thô ráp xù xì, có biểu hiện khô da, đặc biệt rõ ở vùng chẩm. 
Có thể quan sát thấy các sợi tóc dạng chuỗi hạt bằng kính lúp. Trong các ca bệnh thể nhẹ thì khó phát hiện các sợi tóc ngắn bất thường xen kẽ các sợi tóc dài bình thường, bệnh nhân có thể phát hiện tóc bất thường bằng cách sờ. 
Vùng trán, đỉnh, vùng chẩm là vị trí hay gặp, hiếm khi quan sát thấy bệnh monilethrix ở vùng mu, cẳng chân, lông mày và lông mi. 
+Xét nghiệm: 
Mô bệnh học: nang lông phát hiện thấy sự mỏng đi có tính chu kỳ của thân tóc, xen kẽ sự dày lên cuả bao rễ bên trong đối nghịch với sự co nhỏ lại. Nang tóc thường dãn nở nhưng có vẻ như là cách biến đổi này là hậu quả của sự bất thường của tóc hơn là nguyên nhân. 
Đo khoảng cách giữa các nút cục thấy tương đối hằng định. Kích thước được xác định là 312- 625m . 
+Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt: phân biệt với loạn dưỡng di truyền và mắc phải làm gãy tóc, xét nghiệm: dưới kính hiển vi quang học thân tóc phân biệt với bệnh tóc gãy dòn có hạt (trichorrhexis nodosa), bệnh tóc xoắn vặn (pilitorti) và tật nhổ tóc. 
+ Điều trị: thuyên giảm nhất thời sau khi dùng bức xạ ion hoá vùng đầu nhưng không nên dùng nhiều, corticoid tại chỗ không tác dụng.

5.Điều trị:

Chế độ ăn uống đủ chất

Chế độ sinh họat lao động throng điều kiện thỏai mái, ít stress.

Điều chỉnh các nội tiết tố

Điều trị nguyên nhân

Dùng thuốc chống rụng tóc

Dùng thuốc kích thích mọc tóc

Các biện pháp khác:Hạn chế gội, nhuộm, uốn, kéo tóc. Sử dụng dầu gội hợp lý